Nỗi cô đơn hành hạ con người hơn chúng ta tưởng

Nỗi cô đơn hành hạ con người hơn chúng ta tưởng

Nỗi cô đơn hành hạ con người hơn chúng ta tưởng, vì vậy hãy cố gắng để không bị rơi vào tình trạng này.

Hầu như tất cả chúng ta đều từng trải qua nỗi cô đơn vào một thời điểm nào đó. Đó là nỗi đau chúng ta cảm thấy sau một cuộc chia tay, sự mất mát của một người thân yêu, hay sau khi đi xa nhà. Chúng ta rất dễ có cảm giác cô đơn vào bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống.

Nỗi cô đơn hành hạ con người hơn chúng ta tưởng

Ảnh minh họa: Thanhnien.vn

Cô đơn thường được sử dụng để mô tả việc trải qua một trạng thái cảm xúc tiêu cực khi có sự khác biệt giữa các mối quan hệ mà một người muốn có và những thứ mà người đó nhận thấy anh ta có.

Những cảm giác khó chịu của nỗi cô đơn là chủ quan; các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng cô đơn không phải là về lượng thời gian một người trải qua với người khác hay một mình. Nó có liên quan nhiều hơn đến chất lượng của các mối quan hệ, chứ không phải số lượng. Một người cô đơn cảm thấy những người khác không hiểu mình, và có thể không nghĩ rằng những người đó không coi trọng các mối quan hệ.

Một người cô đơn cảm thấy những người khác không hiểu mình.

Đối với một vài người, sự cô đơn có thể là tạm thời và dễ dàng thuyên giảm (chẳng hạn như một người bạn thân chuyển đi, hay vợ hoặc chồng trở về nhà sau một chuyến đi công tác). Đối với những người khác, sự cô đơn không thể dễ dàng được giải quyết (ví như cái chết của một người thân hoặc sự tan vỡ của một cuộc hôn nhân) và có thể dai dẳng khi người đó không thể kết nối với những người khác.

Sự cô đơn có thể được xem như một tín hiệu kết nối với những người khác. Điều này khiến sự cô đơn hơi khác với đói, khát hay nỗi đau thể xác có dấu hiệu cần phải ăn, uống hoặc tìm kiếm sự chăm sóc y tế.

Tuy nhiên trong xã hội hiện đại giàu có, việc tắt các tín hiệu báo động cho sự cô đơn trở nên khó khăn hơn là việc thỏa mãn cơn đói, cơn khát hoặc nhu cầu khám bác sĩ. Đối với những người không được vây quanh bởi những người chăm sóc cho họ, cô đơn có thể vẫn còn.

Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy sự cô lập xã hội là một yếu tố nguy hiểm đối với bệnh tật và tử vong sớm. Kết quả từ một báo cáo từ nhiều nghiên cứu mới đây đã chỉ ra rằng việc thiếu kết nối xã hội đặt ra nguy cơ tương tự của tử vong sớm đối với các chỉ số thể chất như béo phì.

Cô đơn đã được khoa học chứng minh rất hại cho sức khỏe thể chất, từ giấc ngủ không sâu, mất trí nhớ đến giảm lượng máu tim bơm ra.

Một số cá nhân cũng có thể có cơ địa sinh học nhạy cảm với cô đơn. Bằng chứng từ nghiên cứu kép cho thấy sự cô đơn một phần có thể là di truyền.

Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc làm sao sự cô đơn có thể là kết quả của những loại gen nhất định kết hợp với các yếu tố xã hội hay môi trường cụ thể (chẳng hạn như hỗ trợ của cha mẹ).

Phần lớn sự cô đơn bị bỏ qua như một tình trạng liên quan sức khỏe tâm thần. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa hiểu đầy đủ về mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của sự cô đơn như thế nào. Hầu hết các nghiên cứu về sự cô đơn và sức khỏe tâm thần chỉ tập trung vào việc cô đơn liên quan đến trầm cảm như thế nào.

Mặc dù cô đơn và trầm cảm có liên quan phần nào nhưng chúng khác nhau. Cô đơn đề cập cụ thể đến những cảm xúc tiêu cực về thế giới xã hội, trong khi trầm cảm đề cập tới một tập hợp chung những cảm xúc tiêu cực.

Theo một nghiên cứu đo sự cô đơn ở người lớn tuổi trong khoảng thời gian 5 năm, sự cô đơn có thể biến thành trầm cảm, nhưng ngược lại thì không đúng.

Giải quyết nỗi cô đơn

Sống đẹp: Hiểu được luật nhân quả, hãy cho đi để nhận lại

Ảnh: Blog Radio.

Nỗi cô đơn có thể bị nhầm lẫn là một triệu chứng trầm cảm, hoặc có thể nó sẽ biến mất một khi các triệu chứng trầm cảm được giải quyết. Nói chung theo giả định, những người “cô đơn” được khuyến khích tham gia vào một nhóm hoặc kết bạn mới thì nỗi cô đơn sau đó sẽ biến mất.

Trong khi việc tạo ra những cơ hội để kết nối với những người khác cung cấp một nền tảng cho sự tương tác xã hội, thì việc xoa dịu nỗi đau xã hội không quá phức tạp. Người cô đơn có thể nghi ngại về tình hình xã hội và kết quả là đua ra những hành vi chối bỏ. Những điều này có thể được hiểu sai thành thiếu thân thiện, và mọi người xung quanh người cô đơn sẽ phản ứng tương tự. Đây là cách mà nỗi cô đơn có thể trở thành một chu kỳ dai dẳng.

Một nghiên cứu kiểm tra tính hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau để giải quyết sự cô đơn. Kết quả cho thấy những phương pháp điều trị tập trung vào việc thay đổi suy nghĩ tiêu cực về người khác có hiệu quả hơn là những phương pháp cung cấp cơ hội giao tiếp xã hội.

Ngày càng nhiều bằng chứng khoa học nêu bật những hậu quả tiêu cực của sự cô đơn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần không thể tiếp tục bỏ qua.

Một cách giải quyết sự cô đơn đầy hứa hẹn là cải thiện chất lượng các mối quan hệ của chúng ta, cụ thể bằng cách tạo ra thân mật với những người xung quanh chúng ta. Sử dụng cách tiếp cận tâm lý tích cực, tập trung hướng đến lợi ích từ các mối quan hệ xã hội hoặc gia tăng hành vi giao tiếp có thể khuyến khích những mối quan hệ sâu sắc và có ý nghĩa hơn đối với những người khác.

Thật vậy, ngay cả những người đã được chẩn đoán bị bệnh tâm thần nghiêm trọng đã có sự cải thiện về hạnh phúc và các mối quan hệ sau khi chia sẻ cảm xúc tích cực và tham gia những hoạt động tích cực hơn cùng những người khác. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận tâm lý tích cực cho sự cô đơn vẫn còn trong trứng nước.

Chúng ta tiếp tục đánh giá thấp khả năng gây chết người của sự cô đơn như một vấn đề sức khỏe công cộng nghiêm trọng. Trong khi các công cụ hiện đại như phương tiện truyền thông xã hội có vẻ đẩy mạnh vấn đề kết nối xã hội, ủng hộ các tương tác nhanh với nhiều người quen biết qua sự phát triển của các mối quan hệ không quá rộng nhưng ý nghĩa. Trong lĩnh vực này, vấn đề thách thức là việc giải quyết sự cô đơn và tập trung vào việc xây dựng những mối quan hệ có ý nghĩa với mọi người xung quanh chúng ta.

Ngày càng nhiều bằng chứng khoa học nêu bật những hậu quả tiêu cực của sự cô đơn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần không thể tiếp tục bỏ qua.

Michelle H Lim, Giảng viên kiêm nhà tâm lý học lâm sàng, Trường Đại học Công nghệ Swinburne. Bài viết này ban đầu được đăng trên Mục Đàm luận.

Biên dịch từ The EpochTimes

Xem thêm:

Sources:

BÀI LIÊN QUAN