Y học hiện đại: nguồn gốc và thách thức

Y học hiện đại: nguồn gốc và thách thức

Y học hiện đại đang vượt trội trong việc điều trị những ca y tế khẩn cấp, những ca nhiễm khuẩn, chăm sóc các chấn thương, và những kỹ thuật phẫu thuật phức tạp.

Y học hiện đại

Ảnh: Viện Tế bào gốc.

Tuy nhiên, các bác sĩ phát hiện rằng bản thân họ đang phải đối mặt với những thách thức to lớn, được gây ra từ vô số những căn bệnh mới và những căn bệnh mãn tính hiện nay ở khắp các bệnh viện và phòng khám. Và những gì họ được đào tạo đang không hỗ trợ được nhiều để họ đưa ra những đơn thuốc cho việc điều trị các căn bệnh này.

Nguồn gốc Y học hiện đại

Gốc rễ của y học hiện đại là thuốc và phẫu thuật – dựa trên những thủ thuật y tế, những điều mà có thể bắt nguồn từ thời điểm của Rene Descartes (1596-1650), một nhà khoa học nổi tiếng và nhà triết học đặc trưng bởi chủ nghĩa duy lý, thế giới quan nhị nguyên của mình. Những quan niệm của ông đã dẫn đến sự tách biệt giữa “Tâm trí” ra khỏi “Cơ thể”.

Rene Descartes (1596-1650)

Rene Descartes (1596-1650). Ảnh: Simply Charly.

Ở giữa thế kỷ 19, việc phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh đã tiếp tục được bổ sung cho nền tảng của lý thuyết y học hiện đại. Vào thời điểm đó, có hai lý thuyết đối lập liên quan đến nguyên nhân gây ra bệnh tật.

Một giả thuyết cho rằng việc lây nhiễm vi khuẩn được biết đến như những mầm bệnh (vi khuẩn, virus và nấm) là nguyên nhân gây ra những bệnh tật. Còn giả thiết kia thì cho rằng những vi khuẩn này chỉ trở thành truyền nhiễm nếu điều kiện bên trong cơ thể là phù hợp với chúng, khi có sự mất cân bằng trong các hệ thống cơ thể khác nhau.

Theo giả thuyết  sau thì, việc giữ cho môi trường bên trong cơ thể khỏe mạnh là chìa khóa để đảm bảo cho những vi khuẩn này không dẫn đến lây nhiễm, và dẫn đến việc mắc bệnh. Tuy nhiên, cuối cùng, thì các lý thuyết về mầm bệnh, mà đã được ủng hộ bởi Louis Pasteur (1822-1895), đã trở thành chủ đạo.

Lý thuyết về mầm bệnh đã báo trước sự ra đời của y học hiện đại, với sự nhấn mạnh vào nguyên nhân nhiễm bệnh hơn là việc tạo ra và duy trì sự hài hòa và cân bằng sinh lý. Sự ra đời này được tiếp nối bằng việc phát hiện ra các loại thuốc kháng khuẩn (kháng sinh) như thuốc penicillin và sulfa.

Tuy nhiên, khoa học y càng chấp nhận các lý thuyết về mầm bệnh, thì nó càng tập trung vào xử lý các khía cạnh cụ thể của bệnh tật. Loại bỏ các triệu chứng và các yếu tố thay đổi bên ngoài đã thay thế vai trò của cá nhân trong việc giữ gìn sức khỏe của chính họ.

“Hầu hết trên các quầy bán thuốc (không cần kê của bác sĩ) và gần như tất cả các phương pháp điều trị bằng thuốc theo quy định chỉ đơn thuần che đi triệu chứng của bệnh, kiểm soát các vấn đề sức khỏe, hoặc bằng một cách nào đó làm thay đổi phương thức làm việc của các hệ thống hay các cơ quan nội tạng.

“Thuốc hầu như không bao giờ đối phó được những nguyên nhân gây ra các vấn đề đang tồn tại, trong khi chúng thường xuyên gây ra những tác dụng phụ mới đối với sức khỏe,” Tiến sĩ John R. Lee, MD (1929-2003) đã viết, ông là người tiên phong đã được quốc tế công nhận và là chuyên gia lĩnh vực về liệu pháp thay thế hormone cho phụ nữ.

“Sự mất mát trong phương pháp này là các khái niệm để chỉnh sửa lại sự mất cân bằng, ở những nơi cho phép các căn bệnh xuất hiện lần đầu tiên. Khoa học y tế đã trở thành một phía trong định hướng của nó, ngày càng làm giảm tầm nhìn toàn diện của con người trong nỗ lực điều trị các bộ phận riêng lẻ của cơ thể. “

“Nếu chúng ta coi cơ thể như một căn nhà, chúng ta thấy rằng các vấn đề nằm ở các khoảng trống và các hỏng hóc xuất hiện từ nền móng, sẽ cho phép các loại sâu bệnh khác nhau tự tung tự tác theo cách của chúng ở bên trong. Các bác sĩ hiện đại giải quyết vấn đề này bằng cách bán cho bạn các chất độc hoặc bẫy để giết hoặc bắt các loài sâu bệnh gây hại. Nhưng điều này vẫn không ngăn chặn được những loài virus khác chẳng ai ưa, đến xâm nhập vào nhà thông qua các lỗ hổng trong tương lai.

“Thật là tốt hơn nhiều nếu bác sĩ của bạn có thể nghiên cứu và tìm ra được vị trí các lỗ hổng và giúp bạn sửa chữa chúng, đồng thời dạy cho bạn biết làm thế nào để ngăn chặn không cho chúng xuất hiện một lần nữa”, Lee viết.

Bác sĩ và là nhà hóa học người Đức – Samuel Hahnemann (1755-1843), đã công nhận những hạn chế của phương pháp tiếp cận các triệu chứng dựa trên y học, cũng như các triển vọng sẽ gây ra thiệt hại cho các bệnh nhân. Ông đặt ra thuật về Liệu pháp đối chứng (allopathy) (có nghĩa là “sự đau khổ khác”) để mô tả những gì, trong quan điểm của ông, đó là một phương pháp sai lầm và không đầy đủ về việc chăm sóc bệnh và phòng ngừa bệnh tật.

 Louis Pasteur

Louis Pasteur là người ủng hộ học thuyết về mầm gây bệnh, vốn là chỗ dựa của y học hiện đại. Ảnh: VnEpress.

Những thách thức trong Y học hiện đại

Các bác sĩ đang phải đối mặt hàng ngày với nhiều bệnh nhân bị bệnh, mà y học hiện đại cung cấp chỉ điều trị chủ yếu là các triệu chứng bề ngoài. Tuy nhiên, sự kỳ diệu của thuốc kháng sinh đang biến mất, cũng như một loạt các thuốc kháng bệnh lây nhiễm mới xuất hiện. Ngoài ra, số lượng người thiếu sức sống ngày càng tăng, cộng thêm hàng loạt khiếu nại đã gây khó khăn cho cộng đồng y tế để xác định rõ căn nguyên.

Rất nhiều người lớn và nhiều trẻ em ngày nay bị các triệu chứng dị ứng, đau đầu, thiếu năng lượng, mệt mỏi quá mức, và nhiều dạng rối loạn tiêu hóa và hô hấp, cùng với một loạt trạng thái cảm xúc, bao gồm trầm cảm, thay đổi tâm trạng, và lo lắng.

Áp lực của y học hiện đại có thể được mô tả như cuộc chiến tranh ngầm. Bệnh tật được xem như là một sự xâm lược của kẻ thù, và việc điều trị nhằm mục đích để phát triển “những viên đạn ma thuật” dưới hình thức các loại thuốc và vắc-xin nhằm loại bỏ kẻ thù. Khi những viên đạn bạc không thể được tìm ra , các phương thức của y học hiện đại cho việc tàn sát sẽ được thực hiện dưới hình thức xạ trị tế bào chết và các loại thuốc hóa học (chẳng hạn như hóa trị liệu) .

Y học hiện đại

Ảnh: Viện Tế bào gốc.

Giống như những viên đạn mà người lính bộ binh chiến đấu trên con đường phía trước để giành chiến thắng, y học hiện đại cũng cứu và kéo dài thời gian sống cho nhiều người. Tuy nhiên, chất lượng của cuộc sống của những người được cứu có thể không tốt hơn nhiều so với chất lượng cuộc sống của những người lính đang sống trong một khu vực chiến tranh, với vô số các tác dụng phụ của thuốc.

Để tạo ra hòa bình trường cửu , các quốc gia cần các nhà ngoại giao và các nhà lãnh đạo xã hội, những người có thể gián tiếp và trực tiếp thay đổi cách mà con người hành động và nhìn nhận thế giới. Trong y học, các bác sĩ y tế thay vì là các nhà ngoại giao và các nhà lãnh đạo –  được trang bị ít để giành chiến thắng một cuộc đấu súng; nhưng thường được trang bị nhiều hơn những khả năng để ngăn ngừa hoặc thực sự hòa giải những xung đột giữa các tế bào, hóa chất, và các mô .

Bởi: Sammy Li, M.D.

Sammy Li là một bác sỹ y khoa và Tiến sĩ Đại học Bắc Kinh. Cô sống ở Thụy Sĩ và làm việc như một chuyên gia y tế và khoa học tại một công ty nghiên cứu và phát triển y tế quốc tế.

Xem thêm:

Sources:

BÀI LIÊN QUAN